Sau sự kiện Công ty Vedan tuyên bố bồi thường tiền tỉ cho hàng trăm hộ nông dân tại Đồng Nai, TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu do những thiệt hại môi trường gây ra tại đây, nhu cầu về dịch vụ xử lý nước thải ngày càng gia tăng. Cầu tăng ắt sẽ kéo theo cung và hoạt động của hơn 300 công ty cung cấp dịch vụ này tại TP.HCM khiến thị trường càng thêm nóng.
Phân chia lãnh địa
Hiện nay, thị trường dịch vụ xử lý nước thải TP.HCM được phân chia thành 2 nhóm rõ rệt. Nhóm 20 doanh nghiệp thuộc “chiếu trên” với nhiều năm kinh nghiệm, vốn đầu tư lên đến hàng trăm tỉ đồng, chiếm khoảng 60% thị trường. Nhóm còn lại gồm hàng trăm công ty với quy mô vừa và nhỏ với số vốn hoạt động chỉ từ 3 -15 tỉ đồng.
“Mức tăng trưởng của chúng tôi trong năm 2010 dự kiến đạt khoảng 40% so với năm 2009”, bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Chánh Văn phòng Công ty Cổ phần Công nghệ SEEN chi nhánh TP.HCM, cho biết.
Chiến lược của SEEN là tập trung vào các dự án xử lý nước thải có quy mô lớn tại các khu công nghiệp ở khu vực miền Trung và miền Nam với tỉ suất lợi nhuận dự kiến khoảng 30% cho mỗi dự án.
Trong khi đó, mức tăng trưởng của nhóm doanh nghiệp thuộc “kèo dưới” dự kiến đạt 15-20% trong năm 2010 và cuộc chiến giành thị phần thậm chí còn nóng hơn vì có quá nhiều đơn vị cùng tham gia thị trường.
Từ tháng 3 đến nay, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Thương mại Dịch vụ Môi trường Trái Đất Xanh (Q.Gò Vấp, TP.HCM) đã ký được khoảng 10 hợp đồng về xử lý nước thải. Trong số này có 3 hợp đồng có giá trị trên 1 tỉ đồng với các khách hàng gồm Siêu thị Co.opMart Đinh Tiên Hoàng, Q.Bình Thạnh (1,2 tỉ đồng), Công ty Cao su Phát Hưng ở Bà Rịa - Vũng Tàu (1,8 tỉ đồng) và Siêu thị Co.opMart tỉnh Bình Phước (1,1 tỉ đồng).
Ông Nguyễn Văn Tuyến, Giám đốc Công ty Trái Đất Xanh, cho biết: “Tăng trưởng trong năm nay của chúng tôi sẽ đạt khoảng 30% và đây cũng là mức dự kiến cho năm sau”.
Một doanh nghiệp khác là Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Công nghệ Môi trường Việt Nam Xanh ở Q.Tân Bình, TP.HCM cũng ký được đến 10 hợp đồng xử lý nước thải từ tháng 3 đến nay, với giá trị từ 200 triệu đến vài tỉ đồng cho mỗi hợp đồng.
Có đến 6/10 hợp đồng của doanh nghiệp này là cung ứng dịch vụ cho các đơn vị nước ngoài như Siêu thị Metro Cash & Carry (Đức) ở An Giang có công suất 60 m3/ngày, Intel Vietnam (Mỹ) ở Khu Công nghệ cao TP.HCM (80 m3/ngày), Công ty Trách nhiệm Hữu hạn DK Vina (Hàn Quốc) ở Khu Công nghiệp Việt Hương 2, TP.HCM (150 m3/ngày).
Với tỉ suất lợi nhuận từ 20-40% trên một dự án, đây thực sự là con số hấp dẫn thu hút nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này trong thời gian tới.
Cơ hội rộng mở
Dịch vụ xử lý nước thải gồm xây dựng công trình cấp thoát nước, lắp đặt hệ thống máy bơm định lượng, máy thổi gió, máy nén khí, vận hành không tải và có tải hệ thống, tổ chức nghiệm thu.
Ngoài ra, công ty cung cấp dịch vụ còn có thể tư vấn cho khách hàng về tác động của môi trường, xây dựng hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14000 cũng như thiết lập cơ chế phát triển sạch cho doanh nghiệp.
Đối tượng khách hàng là hàng ngàn doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước kể cả thuộc khối nhà nước, tư nhân, đầu tư nước ngoài.
Do nhu cầu thị trường tăng cao nên các doanh nghiệp trong ngành xử lý nước thải cho rằng cơ hội đầu tư trong ngành này đang mở ra cho mọi đối tượng, kể cả với những sinh viên mới ra trường.
Thời gian gần đây, việc sinh viên các trường Đại học Bách khoa, Đại học Mở, Đại học Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM sau khi tốt nghiệp 1-2 năm, đứng ra mở công ty dịch vụ môi trường và xử lý nước thải ngày càng phổ biến. Ông Trần Thanh Tịnh, Giám đốc Công ty Biển Xanh, cho biết, Khoa Môi trường khóa 1999 của Trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM có đến 5 cựu sinh viên ra trường lập công ty; khóa 2001 có 4 công ty và khóa 2002 có 12 công ty.
Vốn đầu tư của những công ty này thường chỉ khoảng vài chục triệu đồng, họ sẵn sàng chào mức giá dịch vụ khá thấp cho những dự án xử lý nước thải có công suất 30-40 m3/ngày. Do đó, chất lượng dịch vụ cũng khác nhau.
Mặc dù cơ hội đầu tư dịch vụ xử lý nước thải rất lớn nhưng lĩnh vực này vẫn chưa phát huy hết được thế mạnh do vẫn còn tồn tại những hạn chế về mặt chất lượng.
Chẳng hạn trường hợp của Công ty Vinamit ở Bình Dương. Trước đây, doanh nghiệp này đã thuê một công ty lắp đặt hệ thống xử lý nước thải với chi phí khá cao, nhưng không đạt yêu cầu về công nghệ và quy trình xử lý không ổn định. Cuối cùng Công ty phải tốn thêm một lần chi phí nữa để làm lại hệ thống.
Đại diện một công ty dịch vụ môi trường ở TP.HCM (đề nghị giấu tên) cho biết, hệ thống xử lý nước thải của 2 resort The Beach và Romana ở Phan Thiết được đầu tư năm ngoái đang bị xuống cấp nhanh chóng và không hoạt động được do chi phí bỏ ra chỉ đạt khoảng 50% so với tổng kinh phí cần thiết để đảm bảo chất lượng dự án.
Mới đây, chủ đầu tư của 2 dự án này đã quyết định chọn một công ty cung cấp dịch vụ mới để chữa cháy nhưng không thành công. Trên thực tế, hệ thống xử lý nước thải của 2 đơn vị này không đạt yêu cầu có thể do cả 2 phía là chủ đầu tư và nhà cung cấp dịch vụ. Một bên cố tình rót kinh phí nhỏ giọt nhằm đối phó với cơ quan chức năng, còn bên kia thì không quan tâm mấy đến yếu tố chất lượng vì được trả quá ít tiền.